ÂM NHẠC CÔNG CHIÊNG CỦA NGƯỜI RAGLAI Ở KHÁNH HÒA
HÌNH PHƯỚC LIÊN
Tộc người Raiglai
là cư dân bản địa cư trú lâu đời trên địa bàn miền núi các tỉnh cực Nam
Trung bộ, thuộc nhóm ngữ hệ Nam
Đảo(Poleniesien). Hiện có khoảng 100 nghìn người, sống tập trung ở các huyện
miền núi thuộc các tỉnh Khánh Hòa, Ninh Thuận và Bình Thuận. Theo thống kê dân
số năm 2009, tỉnh Khánh Hòa có khoảng 40 nghìn người Raglai đang cư trú ở hai
huyện Khánh Sơn, Khánh Vĩnh và các huyện phụ cận như Ninh Hòa, Diên Khánh, Cam
Lâm, thị xã Cam Ranh.
Người Raglai có
quá trình lịch sử lâu đời và có nền văn hóa dân gian phong phú, đặc sắc. Do
soongs trong môi trường miền núi xa xôi, lại phải trải qua nhiều năm trong bom
đạn chiến tranh, nên đời sống kinh tế của người Raglai ở Khánh Hòa đến nay vẫn
còn lắm khó khăn. Một số đặc trưng về văn hóa như trang phục, nhà ở đã bị mai
một đi rất nhiều. Song có điều đáng mừng là hầu hết những di sản văn hóa phi
vật thể của Ông Bà vẫn được truyền thừa và gìn giữ khá nguyên vẹn, như các lễ
hội truyền thống của dân tộc, các bản trường ca (Akhat-Jucar), đặc biệt hệ
thống dân ca, dân nhạc vẫn được gìn giữ khá nguyên vẹn. Tuy nhiên do nhiều lí
do khác nhau, đến nay vẫn chưa có công trình nguyên cứu nào mang tính khoa học
toàn diện về người Raglai. Vì vậy, tộc người Raglai và văn hóa của họ, trong đó
có âm nhạc dân gian Raglai vẫn còn khá xa lạ đối với giới chuyên môn cũng như
với cộng đồng các dân tộc anh em trên đất nước Việt Nam.
Trong bài viết này, chúng tôi chỉ
xin được đề cập một cách hết sức tổng quát về “âm nhạc của tộc người Raglai ở
Khánh Hòa” mà chúng tôi có dịp tiếp cận và thu được với mong muốn cùng nhau
trao đổi, nghĩ suy và tìm cách bảo tồn, phát huy nó trong đời sống hiện nay.
1.Trong
một bài viết về âm nhạc dân tộc, khi đề cập đến tính dân tộc trong nền âm nhạc
truyền thống Việt Nam, giáo sư nhạc sĩ Tô Vũ có viết: “Những đặc điểm lớn, mang tính Việt Nam, có thể xuất phát từ các yếu tố
thổ ngơi, địa lí…vừa từ sự sống chung, giao lưu văn hóa nghệ thuật lâu đời bên
nhau trong cộng đồng và những nét đăc trưng dân tộc có thể có nguồn gốc từ ngôn
ngữ, tập quán sinh hoạt mà tạo ra cái “hồn nghệ thuật” là đặc thù của từng dân
tộc. Cũng trong bài viết này ông đã nhấn mạnh rằng : “để phát hiện ra từng đặc
trưng âm nhạc của từng dân tộc, người ta không chỉ dựa trên sự quan sát hời
hợt, một cuộc điền dã “cưỡi ngựa xem hoa”, nhất là đối với những dân tộc có sự
sống chung lâu đời và giao lưu khăng khít với các dân tộc khác, khiến cho những
đặc trưng của dân tộc mình dễ bị lẫn vào những đặc điểm lớn và chung của cả
cộng đồng”. Những điều nêu trên xem ra là khá phù hợp và xác đáng đối với
việc nghiên cứu âm nhạc của tộc người Raglai ở Khánh Hòa.
Khảo sát thực địa chúng ta cho thấy, người Raglai ở
Khánh Hòa có mối quan hệ và giao lưu văn hóa lâu đời, rõ nét với các tộc người
cùng chung ngữ hệ như Chăm, Êđê,Churu và nhất là người Việt, và trong quá trình
cộng sinh, cộng cư ấy nhiều yếu tố văn hóa đặc thù của họ đã bị lẫn vào cái
chung của cộng đồng. Ngày nay, nếu quan sát kỹ các mặt đời sống sinh hoạt cua
người Raglai ta sẽ thấy nhiều điểm tương đồng với người chăm như sắc phục, một
số nhạc cụ hoặc những nét gần gũi với người Êđê như các lễ hội nhạc cụ…và tất
nhiên có rất nhiều điều rất giống với người Việt.
Chúng tôi
còn nhớ, trong cuộc “liên hoan văn hóa _thể thao dân tộc Raglai 3 tỉnh Khánh
Hòa,Ninh Thuận ,Bình Thuận năm 2005” đươc tổ chức tại thành phố Nha Trang, một
số điều diễn ra trong thực tế đã làm cho chúng tôi hết sức ngỡ ngàng. Vì tuy
cùng tộc người và cùng ngôn ngữ, song khi nghe các nghệ nhân Raglai ở Bình
Thuận và Ninh Hải_Ninh Thuận hát ca, nói
chuyện thì nhóm nghệ nhân ở Khánh Hòa đã không hiểu hết ; cách diễn tấu nhạc cụ
và trang phục cũng có nhiều dị biệt. Hỏi vì sao thì các nghệ nhân chỉ biết cười
và lắc đầu. Đành suy luận,có phải đó chính là hệ quả của quá trình cộng sinh
lâu dài của các nhóm tộc người Raglai với các tộc người có nền văn hóa ổn định
hơn trong khu vực như Chăm,Êđê chăng? Và có phải vì thế mà có một số nhà dân
tộc học chia tộc người Raglai thành Raglai bắc (cư trú tại Khánh Hòa), Raglai
nam (cư trú tại Ninh Thuận ) và Raglai (cư trú tại Bình Thuận) chăng? Đặt những
câu hỏi trên, chúng tôi chỉ muốn khẳng định rằng, khi nghiên cứu về âm nhạc của
tộc người Raglai ở Khánh Hòa chúng ta phải làm thật kỹ công tác điền dã và cần
thiết phải làm cuộc đối chiếu tay đôi, tay ba với các nền âm nhạc chăm, Êđê và
có khi cần phải đối chiếu với cả âm nhạc của tộc người Rai đang ở cách xa với
người Raglai ở Khánh Hòa muôn sông ngàn núi
2. Cũng như hầu
hết các dân tộc Tây Nguyên, đời sống văn hóa và tín ngưỡng của người Raglai ở
Khánh Hòa luôn có sự gắn bó máu thịt với âm nhạc, trong đó âm nhạc cồng chiêng
bao giờ cũng giữ vai trò chủ đạo. Cồng và chiêng là nhạc cụ được pha chê bằng
đồng pha với các hợp kim khác như gang, chì , bạc và có khi còn pha với cả vàng
nhằm tạo nên âm sắc đẹp và độ vang xa cho tiếng chiêng. Những bộ chiêng quý như
thế, ngày nay chỉ còn giữ lại trong những câu chuyện kể của người già về một
thời của kí ức.
Từ xưa đến
nay, các tộc người Tây Nguyên không tự chế cồng chiêng mà đều đặt mua từ các
nước Lào và Campuchia và cả người Kinh và sau đó về chỉnh sửa âm thanh cho phù
hợp với tai nghe dân tộc mình rồi đưa vào sử dụng. Căn cứ vào xuất xứ, người
Tây Nguyên chia cồng chiêng ra làm ba loại: chiêng Joan-do người Lào chế tác
(có khi được mua từ Mianma); chiêng Kur- do người Campuchia chế tác. Trong đó
chiêng Lào được người Tây Nguyên quý nhất.
Từ các đặc
điểm chế tác và các tiêu chí âm thanh, các nhà âm nhạc học đã xếp cồng chiêng
Tây Nguyên vào loại nhạc khí tự thân rung (Idiphone), loại có núm thì gọi là
cồng, gọi không núm thì gọi là Chiêng. Cách gọi trên có phần áp đặt, bởi vì mỗi
dân tộc Tây Nguyên đều có cách gọi tên riêng cho loại nhạc cụ này.
Người
Raglai không dùng công mà chỉ dùng chiêng và họ gọi là Char (phát âm gần giống
như “Sa” của tiếng Việt). Trong thực tế người Raglai ở Khánh Hòa cũng có “bộ
Char” của mình là “Mã la” theo cách gọi của người Việt. (Sau đây xin gọi Char là Mã la).
Cũng như
các dân tộc đồng bào Tây Nguyên, người Raglai không chỉ xem cồng chiêng là nhạc
cụ đơn thuần mà nó còn biểu thị sức mạnh tâm linh, là vật thiêng được từng gia
đình gìn giữ như bảo vật. Họ tin rằng mỗi chiếc chiêng đều có một vị thần
(Yang) trú ngụ. Dàn chiêng càng cổ xưa thì âm sắc càng đẹp thì sức mạnh của tàn
càng lớn. Vì vậy, để có được một dàn
chiêng quý, thời xưa người Tây Nguyên phải đi thật xa để mua, có dàn phải đổi
bằng hàng chục con trâu, có lúc phải đổi bằng voi mới được một dàn chiêng quý. Vì vậy, đối với người Raglai, dàn chiêng
không chỉ biểu thị cho sự giàu có và hơn thế nữa biểu thị cho sự giúp đỡ, bảo
vệ thần linh đối với người sỡ hữu.
Từ quan
niệm trên, dàn cồng chiêng luôn được giữ gìn cẩn thận, nó chỉ được sử dụng
trong những ngày trọng đại của gia đình và làng buôn. Mỗi tiếng chiêng vang
mang cả lời ước nguyện của cả cộng đồng gởi tới thần linh, và giải thích vì sao
cồng chiêng luôn xuất hiện trong hầu hết các sinh hoạt cộng đồng và tâm linh
của đồng bào Tây Nguyên. Mỗi điệu chiêng chỉ vang lên trong một không gian văn
hóa riêng biệt để bày tỏ ước nguyện riêng biệt đến thần linh. Cho nên chỉ cần
tiếng chiêng, người ta có thể biết được ở nơi nào đó xảy ra việc gì. Hồn của
chiêng bao giờ cũng cũng gắn với một không gian văn hóa cụ thể. Sự lẫn lộn về
bài bản chiêng vì vậy cũng là điều cấm kị.
3. Dàn Mã la của người Raglai có số lượng bao nhiêu
chiếc đến nay vẫn còn phải tìm hiểu tiếp tục. Trong các sinh hoạt văn hóa,
người Raglai nói chung và người Raglai ở Khánh Hòa nói riêng thường dùng bộ mã
la 5 chiếc để diễn tấu độc lập hoặc đikèm với các nhạc cụ khác hoặc dùng để đẹm
them trong các bài nhạc cụ dân ca. Dàn Mã la 5 chiếc của người Raglai ở Khánh
Hòa thuộc hệ thống 5 âm không có bán cung và nghiêng về điệu thứ. Điều đó phù
hợp với hệ thống năm âm không có bán cung và nghiêng về điệu thứ. Điều đó phù
hợp với hệ thống thang âm phổ biến của các bài dân ca Raglai. Năm “mặt chiêng” trong
bộ Mã la Raglai được lấy tên theo trật tự của một gia đình mẫu hệ và âm chủ của
một dàn Mã la là chiêng mẹ. Tên gọi các mặt chiêng như sau.
1.Char Yna_Chiêng mẹ
2.Char
Ato_Chiêng cha
3.Char
Malóa_Chiêng con gái lớn
4.Char
Dướp_Chiêng con gái thứ
5.Char
Pen_Chiêng con gái út
Cách tổ chức và gọi tên cho dàn mã la như trên rất phổ
biến ở các Plơi Raglai thuộc hai huyện Khánh Sơn và Khánh Vĩnh (Khánh Hòa) và
đã được hầu hết những người có hiểu biết ít nhiều về văn hóa Raglai đồng ý.
Trong công trình “trang phục cổ truyền của người Raglai”, tác giả Hải Liên –nguyên
chủ tịch hội văn hóa dân tộc tỉnh Ninh Thuận-có kể, ông đã từng thấy bà con
người Raglai ở Ninh Sơn diễn tấu dàn Mã la 9 chiếc. Bản thân tôi cũng từng đươc
nghe một vài người già Raglai bảo rằng, bộ Mã la đầy đủ của Raglai phải có 12
chiếc …Thế nhưng, trong quá trình tìm hiểu âm nhạc Raglai, chúng tôi vẫn chưa
được tận mắt thấy được những bộ char như vậy.
Gần đây- từ ngày 03 đến ngày 05 tháng 09 năm- chúng
tôi đã được tham dự Lễ Bỏ mả do gia đình anh Mấu Xuân Danh (ở xóm 4, thôn dốc
trầu, xã ba cụm bắc,huyện Khánh Sơn, tỉnh Khánh Hòa) tổ chức bỏ mả cho vợ là
Cao Thị Bông theo đúng nghi thức cổ truyền.Theo quy định, lễ Bỏ Mả của người
Raglai bao giờ cũng phải có dàn Mã la diễn tấu điệu tumaya suốt quá trình tế
lễ.
Đội Mã la của xã
Ba cụm bắc phục vụ cho lễ Bỏ Mả hôm ấy gồm 9 chiếc chiêng và một chiếc
trống da nai(Xa gơ). Khi diễn tấu vòng tròn cùng với chủ nhang ,thì đội Mã la
được phân bổ như sau : Từ chiếc chiêng thứ nhất, đến chiếc chiêng thứ 6 làm
thành cụm đầu, kế đến là chiếc trống đi xen vào giữa, sau đó là 3 chiếc chiêng
còn lại đi sau cuối.
Mỗi chiếc chiêng có một tên gọi riêng và đi cùng cặp:Char Ana( chiêng Mẹ),Char t’rua (con trai), Char Pacho 2(con gái thứ 2), Char Paloa 1 (con gái thứ 3), Char Paloa 2(con gái thứ 4), Char Pudu 1(con gái thứ 5), Char Pudu 2 (con gái thứ 6), Char Puda (con gái thứ 7), và chiếc
trống Saigor (vai ông).
So sánh với cách tổ chức và tên gọi các mặt chiêng, ta
thấy hoàn toàn khác với dàn Mã la 5 chiếc mà lâu nay mọi người vẫn biết. Được
biết, ở Ba Cụm Bắc dàn Mã la 9 chiếc chỉ được sử dụng trong khi diễn tấu điệu
Tumaya tại lễ bỏ mả. Trong các cuộc sinh hoạt văn hóa và lễ thức khác thì người
Raglai ở Ba Cụm Bắc cũng sử dụng dàn Mã la 5 chiếc. xin được nêu ra hiện tượng
này để chúng ta cùng suy nghĩ.
4.
Mã la của người Raglai được diễn tấu theo hình thức tập thể. Mỗi nghệ nhân đảm
trách 1 chiếc, hòa với nhau để tạo nên một diệu chiêng hoàn chỉnh. Người Raglai
có khá nhiều điệu chiêng riêng và mỗi điệu dành cho một dịp lễ: Lễ cưới, cuộc
vui thì đánh điệu Ru-wo, Lễ Ăn đầu lúa mới thì chơi điệu Ato-pa-kruc, điệu
Sa-va-lu-o, Lễ Bỏ mã thì phải đánh điệu Tu-ma-ya… Có cả các điệu chơi theo
tiếng chim rừng (Ato-pa-ra-vu), chơi theo tiếng gà rừng gáy (Ato-pa-rai-manh),
chơi theo tiếng chim cu (Ato-ka-to-rau-ma-nhi). Các điệu chiêng Raglai có điệu
chiêng khá rõ nét, tiết tấu vừa phải cho người nghe cảm giác nhẹ nhàng pha chút
cảm giác buồn chứ không rạo rực cháy bỏng như các điệu chiêng của các dân tộc
anh em Ê-đê vốn cùng chung ngữ hệ. Mỗi điệu chiêng Raglai có độ dài từ 4 đến
8 nhịp 4/4, lặp đi lặp lại nhiều lần và
kết bài theo quy định của người giữ chiêng mẹ
Nếu người Ê- đê đánh chiêng trong tư thế ngồi thì
người Raglai lại diễn tấu Mã la trong tư thế vừa đi vừa nhún nhảy rất độc đáo.
Vì thế mà người Raglai còn gọi cách diễn tấu Mã la là múa Mã la. Đối với người
Raglai thì Mã la là nhạc cụ chỉ dành cho nam giới, khi diễn tấu họ không dùng
dùi mà dùng bằng tay tạo nên âm thanh dịu dàng, mềm mại. Nhà báo Bảo Trân-
trưởng văn phòng đại diện Báo Lao động tại Nha Trang trong một bài viết đã diễn
đạt quan niệm người Raglai ở Khánh Hòa về vấn đề này như sau: “Mã la (Char) là đàn bà nên chỉ đàn ông mới
hiểu. Đàn ông Raglai dùng phần mền nhất của bàn tay vỗ nhẹ lên Mã la, âm điệu
nhanh chậm và trầm bổng như hơi thở, nhịp tim của mỗi người… Tiếng Mã la bay
lên đỉnh núi, tỏa xuống lá rừng, đọng trong sương sớm… kết thành hoa trái”.Tưởng
không còn gì hơn để nói.
Khảo sát thực tế, khi diễn tấu Mã la bao giờ các nghệ
nhân cũng đi vòng tròn theo chiều ngược kim đồng hồ. Điều đó cho thấy các Mã la
hình thức dâng cúng thần linh, ông bà chứ không phải là âm nhạc đời thường.
Chính vì vậy mà chỉ cần sử dụng Mã la người ta vẫn có thể cúng Yang và các nghệ
nhân luôn tuân thur nghiêm ngặt quy định về bài tiết diễn tấu trong từng cuộc
lễ. Ngày nay, trong quy định truyền thống, các nghệ nhân có thể sử dụng Mã la
để phục vụ cho những cuộc hội hè và cả biểu diễn trên sân khấu, nhưng tại các
cuộc lễ truyền thống thì những quy định của cha ông vẫn luôn được giữ gìn
nghiêm ngặt.
…
Tiếng Mã la linh thiêng là thế, nhưng phải đang đối
mặt với sự mai một từng ngày. Nhiều người già Raglai đã rất buồn khi thấy con
em mình ngày càng ít quan tâm các giá trị tâm linh của ông bà. Số thanh niên
biết đánh Mã lai ở các Ploi ngày càng ít đi, tiếng Mã la ngày càng thưa dần trong
những buổi sinh hoạt cộng đồng. Không ít cuộc lễ của người Raglai dược tổ chức
mà không có sự tham dự của đội Mã la. Không gian văn hóa Raglai thiếu tiếng Mã
la và ngày càng phổ biến, và đây là vấn đề lớn đang được đặt ra trong công tác
bảo tồn và chấn hưng văn hóa dân tộc.
H.P.L
Nguồn:Tạp
chí Nha Trang .- Số xuân Canh Dần 2010
.- tr. 146,151.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét